Từ những quyết sách quan trọng
Với mục tiêu đến năm 2030 tối thiểu 40% doanh nghiệp có hoạt động ĐMST, chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, kinh tế số chiếm 30% GDP, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động ĐMST của doanh nghiệp. Điển hình như Nghị quyết 57, Nghị quyết 68, trong đó, Nghị quyết 57 nhấn mạnh vai trò của ĐMST như 1 trong 3 đột phá chiến lược, làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện, Nhà nước đề ra yêu cầu xây dựng thể chế linh hoạt, thúc đẩy hợp tác PPP trong các lĩnh vực hạ tầng công nghệ, đào tạo nhân lực và đầu tư đổi mới.
Nghị quyết 68 cũng đặt khu vực tư nhân vào vai trò trụ cột của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp có năng lực sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tư nhân được khuyến khích mạnh mẽ tham gia đầu tư vào nghiên cứu, liên kết với trường, viện và các tổ chức trung gian để hình thành một hệ sinh thái sáng tạo toàn diện và bền vững.
Hai nghị quyết này tạo thành nền tảng chính sách nhất quán và bổ trợ lẫn nhau. Trong đó, doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST đóng vai trò then chốt, vừa là chủ thể triển khai ĐMST, vừa là lực lượng tiên phong trong nâng cao chất lượng khu vực kinh tế tư nhân. Để phát huy hiệu quả, hợp tác PPP cần được thiết lập như một cơ chế vận hành thiết yếu của hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, bảo đảm huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực từ cả nhà nước và tư nhân cho mục tiêu phát triển bền vững.
Thực trạng tại Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long
Bà Nguyễn Thị Thương Linh cho rằng, thế giới đang bước vào giai đoạn đầy biến động, bất ổn chính trị, chiến tranh thương mại ngày càng leo thang, chính sách kinh tế thay đổi nhanh chóng; hệ thống pháp luật liên tục được cập nhật để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững… tất cả những thay đổi này đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế, xã hội, doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
Bên cạnh những khó khăn thách thức chung, khu vực Đồng bằng sông cửu Long (ĐBSCL) nói chung và TP Cần Thơ nói riêng còn phải đối mặt với các thách thức và khó khăn mang tính “căn cơ” như biến đổi khí hậu, chất lượng nhân lực thấp, lao động thiếu kỹ năng, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp hạn chế, trình độ và khả năng hấp thu công nghệ của người lao động chưa cao… Chính vì vậy, việc thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, xây dựng hệ sinh thái ĐMST, làm nền tảng cho thúc đẩy ĐMST, phát triển doanh nghiệp… là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Cần Thơ - với vai trò trung tâm vùng cần đóng vai trò tiên phong trong thúc đẩy khoa học, công nghệ, ĐMST cũng như phát triển lực lượng doanh nghiệp mới đạt yêu cầu cả về lượng và chất. Trong đó, thực hiện thúc đẩy hợp tác PPP nhằm tạo lập môi trường thuận lợi, phát triển lực lượng doanh nghiệp mới có năng lực ĐMST và hội nhập sâu rộng, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là ưu tiên mà chính quyền địa phương đóng vai trò dẫn dắt và tạo điều kiện để quá trình hợp tác được thành công.
Thời gian qua, TP Cần Thơ đã có những bước tiến tích cực trong việc thúc đẩy ĐMST. Thành phố luôn đứng đầu ĐBSCL về chỉ số ĐMST 2 năm liên tục (PII 2023, 2024) và nằm trong top 12 các địa phương đứng đầu cả nước. Cần Thơ đã chú trọng thúc đẩy cơ chế phối hợp giữa nghiên cứu, doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ĐMST. Tuy nhiên, hệ sinh thái ĐMST tại địa phương vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, quá trình triển khai còn phân tán, thiếu sự chủ động trong kết nối liên ngành và chưa phát huy đầy đủ vai trò của hợp tác PPP. Bên cạnh đó, một số nội dung hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp còn mang tính định hướng, thiếu cơ chế thực thi và chịu trách nhiệm rõ ràng, chưa đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp cũng như các tác nhân trong hệ sinh thái trên thực tế. Hạ tầng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phục vụ cho công tác điều hành, quản lý và kết nối với khu vực tư nhân chưa phát triển đồng bộ, ảnh hưởng đến hiệu quả điều phối và thực thi chính sách.
Mặt khác, trình độ phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều hạn chế về năng lực đổi mới, khả năng liên kết chuỗi, tiếp cận công nghệ và tiêu chuẩn chất lượng. Các cơ chế khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực nghiên cứu - phát triển và công nghệ cao chưa thực sự hấp dẫn; hệ thống tổ chức trung gian hỗ trợ ĐMST và các mô hình quỹ hợp tác PPP chưa hình thành rõ nét. Sự phối hợp giữa nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức công (viện, trường) còn rời rạc, sự hợp tác giữa các tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp còn hạn chế.
Thách thức và giải pháp
Việc thúc đẩy hợp tác PPP trong phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST giữa các tỉnh/thành phố trong vùng đang còn đối mặt với một số thách thức mang tính căn cơ và hệ thống.
Trước hết, thể chế và chính sách hiện hành còn chưa hoàn chỉnh, chưa hình thành đầy đủ khung pháp lý đặc thù để điều chỉnh các mô hình hợp tác PPP trong lĩnh vực ĐMST. Các nghị quyết, chiến lược và chương trình hiện có thường mang tính định hướng vĩ mô, thiếu các công cụ pháp lý cụ thể ràng buộc triển khai ở cấp địa phương. Trách nhiệm và vai trò của các cơ quan chức năng trong việc dẫn dắt hợp tác PPP chưa được quy định rõ, dẫn đến tình trạng lúng túng, chồng chéo trong thực thi.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST, phát triển hệ sinh thái còn phân tán, chưa mang tính đồng bộ và hệ thống, thiếu các cơ chế chia sẻ rủi ro, chưa đủ khuyến khích khu vực tư tham gia sâu vào giai đoạn đầu của startup cũng như trở thành thành tố chính trong hệ sinh thái. Ngoài ra, việc ứng dụng khoa học, công nghệ, ĐMST trong các tổ chức công còn mang tính “hàn lâm”, chưa đẩy mạnh tính ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chưa thương mại hoá… Trong khi đó, khu vực tư nhân, doanh nghiệp khởi nghiệp, startup còn hạn chế về năng lực, thiếu các điều kiện ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và ĐMST.
Về năng lực tổ chức thực thi, TP Cần Thơ và ĐBSCL nhìn chung còn thiếu đội ngũ chuyên trách có kiến thức chuyên môn về ĐMST và am hiểu về các mô hình liên kết, thúc đẩy sự hợp tác. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn lại phân tán và thiếu đầu mối điều phối chung. Các tổ chức trung gian hỗ trợ ĐMST (vườn ươm, trung tâm ĐMST, liên minh doanh nghiệp - viện - trường…) chưa phát triển, đặc biệt thiếu các mô hình hợp tác PPP vận hành hiệu quả và bền vững.
Cuối cùng, tính chủ động trong hợp tác PPP vẫn còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp vẫn e ngại thủ tục hành chính phức tạp và chưa tin tưởng vào tính hiệu lực của chính sách hỗ trợ. Ngược lại, một số tổ chức công còn thận trọng, chưa chủ động hợp tác với khu vực tư nhân. Điều này dẫn đến hợp tác PPP còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, thiếu sự theo đuổi và kiên trì… dẫn đến sự hợp tác chưa chặt chẽ và mang lại hiệu quả chưa như kỳ vọng.

Bà Nguyễn Thị Thương Linh tham dự chương trình Hội thảo “Giới thiệu chương trình ươm tạo khởi nghiệp 2020 và chương trình tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sáng tạo” tại Sóc Trăng nhằm phát động Cuộc thi Khởi nghiệp ĐBSCL 2020. Ảnh: CTV
Những thách thức nêu trên đòi hỏi phải có cách tiếp cận tổng thể, từ hoàn thiện thể chế đến nâng cao năng lực thực thi và thiết lập cơ chế hợp tác linh hoạt, hiệu quả hơn. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để đề xuất các giải pháp thiết thực trong việc thúc
đẩy hợp tác PPP nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST tại TP Cần Thơ và vùng ĐBSCL theo định hướng của Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68.
Để thúc đẩy hợp tác hiệu quả giữa khu vực công và tư nhân trong phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST, TP Cần Thơ với vai trò trung tâm vùng cần triển khai các giải pháp sau theo hướng có trọng tâm, đồng bộ, có tính khả thi và phù hợp.
Thứ nhất, ưu tiên hoàn thiện thể chế theo hướng đặc thù, linh hoạt và thực tiễn nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định cho hợp tác PPP trong lĩnh vực ĐMST. Trước mắt, cần chủ động cụ thể hóa Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 bằng các chính sách đồng bộ, có phân công nhiệm vụ rõ ràng, lộ trình triển khai, định lượng các chỉ tiêu đánh giá và cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả. Lãnh đạo địa phương đóng vai trò kiến tạo, bảo đảm môi trường hợp tác minh bạch, thuận lợi và thúc đẩy các bên tham gia chủ động, đầu tư hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường vai trò dẫn dắt, điều phối và năng lực thực thi của khu vực công trong hệ sinh thái ĐMST. Cần thành lập đầu mối điều phối cấp thành phố theo cơ chế liên ngành, chuyên môn hóa, độc lập và hiệu quả. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thông qua đào tạo chuyên sâu, học tập kinh nghiệm từ các mô hình hợp tác PPP tiêu biểu trong và ngoài nước. Đầu tư công cần có trọng tâm, ưu tiên các dự án hạ tầng ĐMST có tác động lan tỏa và khả năng thu hút hợp tác đầu tư từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước.
Thứ ba, đầu tư, phát triển hiệu quả các mô hình hợp tác PPP thông qua việc hình thành các tổ chức trung gian đổi mới sáng tạo như trung tâm đổi mới, vườn ươm, phòng thí nghiệm mở và trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp. Đồng thời, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp - viện - trường - tổ chức xã hội trong quản trị và vận hành theo cơ chế đặt hàng, đấu thầu hoặc đầu tư liên kết. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện thành lập các quỹ đầu tư công - tư nhằm huy động nguồn lực xã hội. Song song đó, thiết kế cơ chế hỗ trợ phù hợp để thúc đẩy liên kết giữa các chủ thể trong nghiên cứu, phát triển và thương mại hóa sản phẩm công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao và chuyển giao tri thức phục vụ phát triển bền vững địa phương.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế hợp tác PPP trong ĐMST theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với kết quả đầu ra cụ thể. Ưu tiên thiết kế các chương trình hợp tác theo lĩnh vực then chốt như phát triển hạ tầng ĐMST, tài chính đầu tư cho khởi nghiệp và chuyển giao công nghệ. Đề xuất xây dựng cơ chế đặt hàng nghiên cứu - ứng dụng từ doanh nghiệp; trong đó kết quả đầu ra được xác định rõ theo khả năng thương mại hóa, mức độ ứng dụng vào thực tiễn ngành nghề hoặc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương. Thực hành thí điểm sandbox, khuyến khích viện - trường phối hợp doanh nghiệp triển khai các dự án khởi nghiệp công nghệ, với chỉ tiêu định lượng hằng năm về số lượng dự án được ươm tạo, gọi vốn thành công hoặc đưa ra thị trường. Đồng thời, cần thiết lập bộ tiêu chí và công cụ đánh giá hiệu quả hợp tác PPP trong ĐMST, làm cơ sở phân bổ nguồn lực công, lựa chọn mô hình nhân rộng và điều chỉnh chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Thứ năm, thay đổi tư duy và nâng cao nhận thức là điều kiện tiên quyết để hình thành nền tảng hợp tác PPP bền vững trong lĩnh vực ĐMST. Do đó, cần đẩy mạnh truyền thông và phổ biến các mô hình hợp tác hiệu quả nhằm tạo dựng niềm tin, tăng cường hiểu biết và thúc đẩy tinh thần đồng hành giữa các chủ thể trong hệ sinh thái. Trên cơ sở đó, cần khuyến khích hình thành văn hóa chia sẻ, đồng sáng tạo và cùng đầu tư, từ đó xây dựng hệ giá trị chung giữa khu vực công và tư trong toàn bộ quá trình hỗ trợ, triển khai và thương mại hóa kết quả ĐMST. Đồng thời, việc thiết lập cơ chế đối thoại công - tư định kỳ là cần thiết để tạo không gian tham vấn chính sách, đánh giá hiệu quả thực hiện và kịp thời điều chỉnh theo yêu cầu thực tiễn.
Phong Vũ